Kinh Địa Tạng (tiếng Phạn: Bodhisattvapiṭaka Dhāraṇī Sūtra, tiếng Trung: 地藏菩萨本愿经) là một bộ kinh trong Kinh Tạng Phật giáo được coi là rất quan trọng trong đạo Phật Đại thừa. Kinh Địa Tạng được cho là đã được truyền lại từ Phật Thiện Tạng (tiếng Phạn: Samantabhadra) đến Địa Tạng Bồ Tát (tiếng Phạn: Kṣitigarbha) và sau đó được ghi lại vào thế kỷ thứ 8 ở Ấn Độ.
Kinh Địa Tạng gồm ba phần: bổn nguyện, kinh đại tạng và hậu tạng. Phần bổn nguyện là phần trọng tâm của Kinh, nó được coi là một trong những kinh điển quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới.
Kinh Địa Tạng thường được sử dụng trong các nghi thức cầu siêu, cầu an, cầu con, cầu sức khỏe cho người chết, cầu bình an cho những người đang chịu khổ đau và cũng được sử dụng để cầu nguyện cho sự bình an và hạnh phúc của mọi người. Nó được coi là một trong những kinh sách quan trọng nhất trong Phật giáo và có ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn và tư tưởng của đông đảo người Phật tử.

Nguồn gốc của Kinh Địa Tạng
Kinh Địa Tạng, còn được gọi là Kinh Đại Thừa Kim Cương Phổ Hiền (Sutra Mahāratnakūṭa Sūtra), được cho là một trong những kinh pháp cao quý nhất của đạo Phật Mahayana.
Tuy nhiên, về nguồn gốc của kinh, các học giả có những quan điểm khác nhau. Theo truyền thống, kinh được cho là được truyền từ Đức Phật qua Đại thừa Đường Tăng (Mahāyāna Saṃghika), một trường phái trong đạo Phật Mahayana. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng kinh được biên soạn bởi những học giả Phật giáo sau này, dựa trên những di chỉ của Đại thừa Đường Tăng và sự kết hợp các bản dịch khác nhau.
Dù có thể không chắc chắn về nguồn gốc của kinh, nhưng việc học và tập đọc kinh Địa Tạng đã trở thành một phần quan trọng trong đạo Phật Mahayana, giúp các phật tử rèn luyện trí tuệ, đạo đức và nâng cao nhận thức về thực tại.
Nghi thức tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Nghi thức tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện khá đa dạng và phong phú, tùy theo từng truyền thống Phật giáo và từng vùng miền khác nhau. Tuy nhiên, có một số nghi thức tụng chung được sử dụng rộng rãi như sau:
1. Chuẩn bị: Tìm một không gian yên tĩnh, trang trí bằng hoa sen, hương thơm và đèn dầu. Ngồi đầu thức (hoặc ngồi tịnh tâm) và tâm đặt vào việc tụng kinh.
2. Khởi đầu: Bắt đầu bằng việc đọc các bài kệ để tôn kính Kinh Địa Tạng Bồ Tát và xin được tiếp dẫn trong lễ tụng.
3. Tụng kinh: Tụng từng câu kinh một, lặp lại nhiều lần để tâm hòa nhập với nội dung kinh.
4. Cúng dường: Sau khi kết thúc lễ tụng, có thể thắp nhang, nến, cúng hoa và đọc kinh cúng dường để tôn kính đức Phật và bồ tát.
5. Kết thúc: Sau khi kết thúc lễ tụng và cúng dường, có thể ngồi tịnh tâm và cầu nguyện để tâm hòa nhập với tinh thần Phật giáo.
Ngoài ra, một số truyền thống Phật giáo cũng có các nghi thức tụng đặc biệt dành riêng cho Kinh Địa Tạng Bồ Tát, như nghi thức tụng trì niệm 108 tên Địa Tạng Bồ Tát, tụng kinh trước tượng Địa Tạng Bồ Tát, hay tụng kinh cầu nguyện cho tất cả chúng sinh.
Lợi ích của Kinh Địa Tạng
Lợi ích của Kinh Địa Tạng là một trong những kinh pháp có tầm ảnh hưởng lớn đối với phật tử trong việc tu tập và giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Dưới đây là một số lợi ích của kinh Địa Tạng:
– Giúp giải quyết các khó khăn trong cuộc sống: Kinh Địa Tạng có khả năng giúp cho người tu tập vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh và phát triển lòng từ bi, tình yêu thương.
– Giúp giải thoát khỏi kiếp nạn: Từ các bệnh tật, tai ương cho đến những kiếp nạn khác, kinh Địa Tạng giúp cho người tu tập có thể giải thoát được những nạn đó.
– Giúp tăng cường sức khỏe tinh thần: Khi tu tập Kinh Địa Tạng, người tu tập sẽ tăng cường sức khỏe tinh thần, giảm stress, cân bằng cảm xúc, giải tỏa áp lực trong cuộc sống.
– Giúp truyền cảm hứng cho cuộc sống: Kinh Địa Tạng truyền cảm hứng và động lực cho người tu tập trong cuộc sống, giúp họ vượt qua các khó khăn và sống tích cực hơn.
– Giúp phát triển lòng từ bi, tình yêu thương: Kinh Địa Tạng giúp người tu tập phát triển lòng từ bi, tình yêu thương đối với tất cả mọi người, giúp cho họ có thể sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho mọi người xung quanh.
Tóm lại, kinh Địa Tạng là một kinh pháp có giá trị vô giá trong việc giúp con người sống tích cực, phát triển tinh thần và giải thoát khỏi kiếp nạn.
Công đức của việc chép kinh Địa Tạng
“Đức Phật bảo Ngài Phổ Quảng Bồ Tát:
“Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ thiện nữ nào nghe được danh hiệu của Địa Tạng đại Bồ Tát, hoặc là chắp tay, hoặc là ngợi khen, hoặc là đảnh lễ, hoặc là luyến mộ, người đó sẽ qua khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp.
Này Phổ Quảng! Như có kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào hoặc là họa vẽ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ Tát rồi chừng một lần chiêm ngưỡng, một lần đảnh lễ, người đó sẽ được sanh lên cõi trời Đao Lợi một trăm lần, không còn phải bị sa đọa vào ác đạo nữa.
Ví dầu ngày kia phước trời đã hết mà sanh xuống nhơn gian, cũng vẫn làm vị Quốc Vương, không hề mất sự lợi lớn.”
Hướng dẫn chép kinh Địa Tạng
Phật tử có thể phát tâm chép kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện tùy theo nguyện vọng và khả năng của mình. Tuy nhiên, đối với những người mới bắt đầu, chúng ta cần nắm rõ những hướng dẫn chép kinh Địa Tạng, để có thể thực hiện một cách có hiệu quả.
Khi chép kinh, Phật tử cần giữ sự thanh tịnh thân tâm. Chúng ta đọc kỹ và viết kỹ từng chữ, thực hiện một cách chậm rãi tránh sai sót. Đồng thời, chúng ta cũng nên suy nghĩ về những lời dạy này và cố gắng ghi nhớ trong khả năng có thể. Vì có ghi nhớ, chúng ta mới dễ dàng đưa vào hành động trong thực tế.
Giá trị nhất của việc chép kinh vẫn là chuyển hóa bản thân. Nhờ chép kinh mà Phật tử có cơ hội để nương theo giáo pháp để học hỏi, tu tập, hành trì… Do vậy, sau những lời dạy cao quý mà mình biên chép, chúng ta nên thành tâm phát nguyện trừ bỏ các việc xấu, thực hiện nhiều việc lành, mang đến an lạc cho đời.
Tuy nhiên, chỉ chép kinh thôi thì chưa đủ. Phật tử cần giữ gìn năm giới cấm để vun bồi thiện nghiệp: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Đồng thời, chúng ta tích cực làm các việc lành như bố thí, cúng dường, trì giới, thiền định…
Phật tử có thể phát tâm chép kinh Địa Tạng tùy theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi biên chép, chúng ta cần giữ ba nghiệp thanh tịnh: tay viết, miệng đọc, đầu suy nghĩ. Như vậy, chúng ta sẽ có được sự tập trung vào lời kinh để chiêm nghiệm một cách sâu sắc.
Để chép kinh Địa Tạng, bạn có thể làm theo một số hướng dẫn cơ bản như sau:
1. Tìm bản sao của kinh Địa Tạng để chép hoặc in ấn từ website có sẵn. Nếu bạn muốn chép bản gốc thì hãy đến các chùa, đền, miếu hoặc những nơi có sẵn bản gốc để chép.
2. Chọn một bút chì hoặc bút lông để chép. Bạn có thể chọn bút chì mềm hoặc bút lông thường tùy theo sở thích của mình.
3. Chuẩn bị một tập giấy hoặc một cuốn sổ để chép. Tùy theo kích thước của bản kinh mà bạn chọn, bạn có thể sử dụng giấy A4 hoặc A5.
4. Trước khi bắt đầu chép, hãy đọc kỹ từng đoạn của kinh và tập trung tâm trí vào nội dung của nó. Bạn có thể hát niệm chữ Phật hay nguyện đọc kinh để tâm hồn thanh tịnh và tập trung.
5. Sau đó, hãy viết từng chữ một và đánh dấu những từ quan trọng, danh hiệu Phật, tên các bậc Bồ Tát hoặc các cụ tổ. Khi viết tên các danh hiệu, bạn có thể viết hoa để tôn trọng.
6. Để có bản chép đẹp và chuẩn xác, bạn cần chú ý đến độ nét của bút, độ nghiêng của tay khi viết, độ khoảng cách giữa các từ và đường viền của chữ.
7. Khi viết xong một trang, bạn nên đọc lại để kiểm tra các từ đã viết và sửa chữa nếu cần thiết.
8. Sau khi chép xong, hãy lưu trữ kinh một cách trang trọng và tôn kính. Bạn có thể bọc trong bìa sách hoặc treo lên tường để ghi nhớ và tôn trọng sự thiêng liêng của kinh.
Chúc bạn thành công trong việc chép kinh Địa Tạng và được sống trong sự thanh tịnh và an lạc.
Lời phát nguyện chép kinh Địa Tạng - Bài khấn trước khi chép kinh địa tạng
1. Chí tâm quy mạng lễ
U Minh giáo chủ bổn tôn Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát.
Lạy đức từ bi đại giáo chủ!
“Ðịa” là dày chắc, “Tạng” chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm.
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ.
Mây xinh, mưa báu số không lường.
Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường.
Người, trời bạch Phật: Nhơn gì thế?
Phật rằng: Ðịa Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.
Mười phương Bồ tát chung tin tưởng.
Nay con sẵn có thiện nhơn duyên.
Ngợi khen Ðịa Tạng đức vô lượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành.
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn.
Trong tay đã sẵn gậy vàng.
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sinh.
Tay cầm châu sáng tròn vành.
Hào quang soi khắp ba ngàn Ðại Thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền.
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn.
Ðịa Tạng Bồ tát thượng nhơn.
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Ðại bi, Ðại nguyện, Ðại thánh, Ðại từ, Bổn tôn Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
2. Nguyện hương
Nguyện mây hương mầu này.
Khắp cùng mười phương cõi.
Cúng dường tất cả Phật.
Tôn pháp, các Bồ tát.
Vô biên chúng Thanh văn.
Và cả thảy Thánh hiền.
Duyên khởi đài sáng chói.
Trùm đến vô biên cõi.
Xông khắp các chúng sinh.
Ðều phát Bồ đề tâm.
Xa lìa những nghiệp vọng.
Trọn nên đạo vô thượng.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
3. Phát nguyện
Lạy đấng Tam giới Tôn.
Quy mạng mười phương Phật.
Nay con phát nguyện rộng.
Thọ trì kinh Ðịa Tạng.
Trên đền bốn ơn nặng.
Dưới cứu khổ tam đồ.
Nếu có kẻ thấy nghe.
Ðều phát bồ đề tâm.
Hết một báo thân này.
Sanh qua cõi Cực Lạc.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
4. Kệ khai kinh
Pháp vi diệu rất sâu vô lượng.
Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp.
Nay con thấy nghe được thọ trì.
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Phật.
Nam mô U Minh giáo chủ hoằng nguyện độ sanh:
Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật.
Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề.
Ðại bi, Ðại nguyện, Ðại thánh, Ðại từ, Bổn tôn Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Kinh Địa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện (Quyển Thượng)
PHẨM THỨ NHẤT: THẦN THÔNG TRÊN CUNG TRỜI ĐAO LỢI
PHẬT HIỆN THẦN THÔNG
Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Đao Lợi, đức Phật vì Thánh Mẫu mà thuyết pháp.
Lúc đó, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ Tát trong vô lượng thế giới ở mười phương đều đến hội họp, rồi đồng khen ngợi rằng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức “Đại trí tuệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn” để điều phục chúng sinh cang cường làm cho chúng nó rõ “Pháp khổ pháp vui”.
Khen xong, chư Phật đều sai thị giả kính thăm đức Thế Tôn.
Bấy giờ, đức Như Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn vừng mây sáng rỡ lớn. Như là: Vừng mây sáng rỡ đầy đủ, vừng mây sáng rỡ đại từ bi, vừng mây sáng rỡ đại trí huệ, vừng mây sáng rỡ đại Bát Nhã, vừng mây sáng rỡ đại Tam muội, vừng mây sáng rỡ đại kiết tường, vừng mây sáng rỡ đại phước đức, vừng mây sáng rỡ đại công đức, vừng mây sáng rỡ đại quy y, vừng mây sáng rỡ đại tán thán… Đức Phật phóng ra bất khả thuyết vừng mây sáng rỡ như thế rồi lại phát ra các thứ tiếng vi diệu.
Như là: Tiếng Bố thí độ, tiếng Trì giới độ, tiếng Nhẫn nhục độ, tiếng Tinh tấn độ, tiếng Thiền định độ, tiếng Bát Nhã độ, tiếng Từ bi, tiếng Hỷ xả, tiếng Giải thoát, tiếng Vô lậu, tiếng Trí huệ, tiếng Sư tử hống, tiếng Đại Sư tử hống, tiếng Mây sấm, tiếng Mây sấm lớn…
TRỜI RỒNG… HỘI HỌP
Khi đức Phật phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở trong cõi Ta Bà và cõi nước phương khác cũng đến hội họp nơi cung Trời Đao Lợi.
Như là: Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Tu Diệm Ma, Trời Đâu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phụ, Trời Đại Phạm, Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang, Trời Quang Âm, Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, Trời Biến Tịnh, Trời Phước Sanh, Trời Phước Ái, Trời Quảng Quả, Trời Nghiêm Sức, Trời Vô Lượng Nghiêm Sức, Trời Nghiêm Sức Quả Thiệt, Trời Vô Tưởng, Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Kiến, Trời Thiện Hiện, Trời Sắc Cứu Cánh, Trời Ma Hê Thủ La, cho đến Trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ. Tất cả Thiên chúng, Long chúng, cùng các chúng Quỷ, Thần đều đến hội họp.
Lại có những vị Thần ở cõi Ta Bà cùng cõi nước phương khác, như: Thần biển, Thần sông, Thần rạch, Thần cây, Thần núi, Thần đất, Thần sông chằm, Thần lúa mạ, Thần chủ ngày, Thần chủ đêm, Thần hư không, Thần trên Trời, Thần chủ ăn uống, Thần cây cỏ… Các vị Thần như thế đều đến hội họp.
Lại có những Đại Quỷ Vương ở cõi Ta Bà cùng cõi nước phương khác, như: Ác Mục Quỷ Vương, Đạm Huyết Quỷ Vương, Đạm Tinh Khí Quỷ Vương, Đạm Thai Noãn Quỷ Vương, Hành Bịnh Quỷ Vương, Nhiếp Độc Quỷ Vương, Từ Tâm Quỷ Vương, Phước Lợi Quỷ Vương, Đại Ái Kính Quỷ Vương… Các Quỷ Vương như thế đều đến hội họp.
ĐỨC PHẬT PHÁT KHỞI
Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử đại Bồ Tát rằng: “Ông xem coi tất cả chư Phật, Bồ Tát và Trời, Rồng, Quỷ, Thần đó ở trong thế giới này cùng thế giới khác, ở trong quốc độ này cùng quốc độ khác, nay đều đến hội họp tại cung Trời Đao Lợi như thế, ông có biết số bao nhiêu chăng?”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong nghìn kiếp cũng không biết là số bao nhiêu!”.
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Đến Ta dùng Phật nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Số Thánh, phàm này đều của Ngài Địa Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đương độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng: “Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành chứng đặng trí vô ngại, nghe lời đức Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng tiểu quả Thanh Văn, Trời, Rồng, tám bộ chúng và những chúng sanh trong đời sau, dầu nghe lời thành thật của Như Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong đức Thế Tôn nói rõ nhơn địa của Ngài Địa Tạng Bồ Tát; Ngài tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?”.
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên, cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đều đem làm kiếp cả. Từ lúc Ngài Địa Tạng Bồ Tát chứng quả thập địa Bồ Tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên, huống là những thuở Ngài Địa Tạng còn ở bực Thanh Văn và Bích Chi Phật!
Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Về đời sau, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh tự của Địa Tạng Bồ Tát, hoặc khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường, nhẫn đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, thời người đó sẽ được một trăm lần sanh lên cõi Trời Đao Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo.
TRƯỞNG GIẢ TỬ PHÁT NGUYỆN
Này Văn Thù Sư Lợi! Trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp lâu xa về trước, tiền thân của Ngài Địa Tạng Bồ Tát làm một vị Trưởng giả tử. Lúc đó, trong đời có đức Phật hiệu là: Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Trưởng giả tử thấy đức Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi đức Phật tu hạnh nguyện gì mà đặng tốt đẹp như thế?
Khi ấy, đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo Trưởng giả tử rằng: “Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ”.
Này Văn Thù Sư Lợi! Trưởng giả tử nghe xong liền phát nguyện rằng: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Đạo”.
Bởi ở trước đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, Ngài lập nguyện rộng đó, nên đến nay đã trải qua trăm nghìn muôn ức vô số bất khả thuyết kiếp, mà Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát!
BÀ LA MÔN NỮ CỨU MẸ
Lại thuở bất khả tư nghị vô số kiếp về trước, lúc đó có đức Phật hiệu là: Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, Đức Phật ấy thọ đến bốn trăm nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn, người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng lúc nằm ngồi, chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam Bảo. Thuở ấy, mặc dầu Thánh nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sanh chánh kiến, nhưng mà bà mẹ người chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết, thần hồn sa đọa vào Vô Gián địa ngục.
Lúc đó, Thánh Nữ biết rằng người mẹ khi còn sống không tin nhân quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Thánh Nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng của đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm.
Thánh Nữ chiêm bái tượng của đức Phật lại càng sanh lòng kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng : “Đức Phật là đấng Đại Giác đủ tất cả trí huệ, nếu đức Phật còn trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi sanh vào chốn nào”.
Nghĩ đến đó, Thánh Nữ buồn tủi rơi lệ chăm nhìn tượng Như Lai mà lòng quyến luyến mãi.
Bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: “Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi”.
Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà vái rằng: “Đức thần nào đó mà giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi thương nhớ ngày đêm, không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào?”.
Trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: “Ta là đức Phật quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm bái đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh nên ta đến chỉ bảo”.
Thánh Nữ nghe nói xong liền té xỉu xuống, tay chân mình mẩy đều bị tổn thương. Những người đứng bên vội vàng đỡ dậy, một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại rồi bạch cùng trên hư không rằng: “Cúi xin đức Phật xót thương bảo ngay cho rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!”.
Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: “Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi”.
Lễ Phật xong, Thánh Nữ liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai trải suốt một ngày một đêm, bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia. Nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhảy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia.
Thấy những trai cùng gái số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi ở trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt.
Lại thấy Quỷ Dạ Xoa hình thù đều lạ lùng: Hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu… răng nanh chĩa ra ngoài miệng bén nhọn dường gươm, lùa những người tội gần thú dữ. Rồi Quỷ lại chụp bắt người tội, túm quắp đầu chân người tội lại, hình trạng muôn thứ chẳng dám nhìn lâu.
Khi ấy, Thánh Nữ nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.
Có một Quỷ Vương tên là Vô Độc, đến cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: “Hay thay Bồ Tát! Ngài có duyên sự gì đến chốn này?”.
Thánh Nữ hỏi Quỷ Vương rằng: “Đây là chốn nào?”.
Quỷ Vương Vô Độc đáp rằng: “Đây là từng biển thứ nhứt ở phía Tây núi đại Thiết Vi”.
Thánh Nữ hỏi rằng: “Tôi nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thiệt như thế chăng?”.
Vô Độc đáp rằng: “Thiệt có địa ngục”.
Thánh Nữ hỏi rằng: “Nay tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?”.
Vô Độc đáp rằng: “Nếu không phải sức oai thần, cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra ắt không bao giờ có thể đến đó được”.
Thánh Nữ lại hỏi: “Duyên cớ vì sao mà nước trong biển này sôi sùng sục như thế, và có những người tội cùng với các thú dữ?”.
Vô Độc đáp rằng: “Những người tội trong biển này là những kẻ tạo ác ở cõi Diêm Phù Đề mới chết, trong khoảng bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, kẻ đó lại không làm được nhân lành nào cả.
Vì thế nên cứ theo nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo khổ ở địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này.
Cách biển này mười muôn do tuần về phía Đông lại có một cái biển, những sự thống khổ trong biển đó gắp bội hơn biển này.
Phía Đông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ trong đó càng trội hơn.
Đó đều là do những nghiệp nhân xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi là biển nghiệp, chính là ba cái biển này vậy”.
Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Độc rằng: “Địa ngục ở đâu?”.
Vô Độc đáp rằng: “Trong ba cái biển đó đều là địa ngục, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bậc kế đó có 500 chỗ đủ không lường sự khổ sở, bậc kế nữa có đến nghìn trăm cũng đầy không lường sự thống khổ”.
Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương rằng: “Thân Mẫu của tôi mới khuất gần đây, không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?”.
Quỷ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: “Thân mẫu của Bồ Tát khi còn sống, quen làm những nghiệp gì?”.
Thánh Nữ đáp rằng: “Thân mẫu của tôi mê tín tà đạo, khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm thời tin chánh pháp, xong rồi chẳng kính. Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa lạc vào đâu?”.
Vô Độc hỏi rằng: “Thân mẫu của Bồ Tát tên họ là gì?”.
Thánh Nữ đáp rằng: “Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến. Thân mẫu tôi hiệu là Duyệt Đế Lợi”.
Vô Độc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin Thánh Nữ hãy trở về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Đế Lợi được sanh lên cõi Trời đến nay đã ba ngày rồi.
Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ Tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhân Vô Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả”.
Nói xong, Quỷ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.
Bấy giờ, Thánh Nữ dường chiêm bao chợt tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước tháp tượng của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng:
“Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.
Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Quỷ Vương Vô Độc trước đó nay chính là ông Tài Thủ Bồ Tát. Còn Thánh Nữ Bà La Môn đó, nay là Địa Tạng Bồ Tát vậy”.
Cách hồi hướng sau khi chép kinh Địa Tạng
Cách hồi hướng sau khi chép kinh Địa Tạng như sau:
Hồi hướng 1
Đao lợi, Thế Tôn nói pháp mầu, Ðịa Tạng công hạnh rất rộng sâu,
Thánh giáo mãi truyền sau chẳng ngớt, Khắp lợi Trời, người khỏi khổ sầu.
Hồi hướng 2
Trời, A tu la, Dạ xoa thảy, Ðến nghe pháp đó nên chí tâm,
Ủng hộ Phật Pháp khiến thường còn, Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy,
Bao nhiêu người nghe đến chốn này, Hoặc trên đất liền hoặc hư không,
Thường với người đời sinh từ tâm, Ngày đêm tự mình nương pháp ở.
Hồi hướng 3
Nguyện các thế giới thường an ổn, Phước trí vô biên lợi quần sinh,
Bao nhiêu tội nghiệp thảy đều trừ, Xa lìa các khổ về viên tịch.
Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng, Thường gìn định phục để giúp thân,
Hoa mầu Bồ đề khắp trang nghiêm, Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Xem thêm: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh