Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.Vô khổ, tập, diệt, đạo.
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

Kinh cơ bản và ý nghĩa trong Phật Giáo Đại Thừa
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) là một trong những kinh cơ bản và phổ biến nhất trong Phật Giáo Đại Thừa. Được viết tại Ấn Độ từ năm 100 T.C.N. và được lan truyền qua bảy thế kỷ, kinh này đã đến Trung Hoa và Việt Nam, trở thành một phần không thể thiếu trong việc trì tụng và nghiên cứu tâm linh Phật Giáo. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa và vai trò của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh trong Phật Giáo.
Ý nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật Giáo Đại Thừa, là nền tảng cho việc hiểu sâu hơn về triết lý Phật Giáo. Kinh này giảng về trí huệ vô ngã, sự thức tỉnh tối cao và lòng từ bi, giúp con người khai triển trí tuệ và đạt tới bậc giác ngộ cao nhất. Nó là nguồn cảm hứng và chỉ dẫn cho những người tu tập đường đi Phật pháp.
Lan truyền qua nhiều thế kỷ
Tâm Kinh đã trải qua một cuộc hành trình dài và gian nan trong việc lan truyền từ Ấn Độ sang Trung Hoa và các nước phương Đông khác. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng đã chuyển dịch kinh này sang tiếng Hán, tạo ra nhiều bản dịch phổ biến. Bản dịch của ngài Huyền Trang được xem là phổ thông nhất, và nó đã được chuyển sang chữ quốc ngữ Hán Việt tại Việt Nam, thuận tiện cho việc trì tụng và nghiên cứu.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh tại Việt Nam
Tại Việt Nam, Tâm Kinh có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tâm hồn và tinh thần. Bản dịch của ngài Huyền Trang đã trở thành một trong những bản dịch phổ biến nhất, thường được sử dụng để trì tụng hàng ngày trong các chùa và nhà Phật. Nhiều cao tăng nổi tiếng như Thích Thiện Hoa, Thích Thanh Từ và Thích Nhất Hạnh đã viết nhiều sách giải thích nghĩa kinh, giúp mọi người hiểu rõ hơn về triết lý và ý nghĩa sâu sắc của Tâm Kinh.
Tầm quan trọng trong tu tập Phật Giáo
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh không chỉ là một bản kinh đơn thuần mà còn là hướng dẫn, sự gợi ý và nguồn cảm hứng cho người tu tập. Từ bi, lòng kiên nhẫn và trí tuệ trong kinh này đã giúp nhiều người hướng về con đường tốt đẹp và hạnh phúc.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một trong những kinh quan trọng và phổ biến nhất trong Phật Giáo Đại Thừa. Tâm Kinh đã lan truyền qua nhiều thế kỷ và có vai trò quan trọng trong việc giúp con người hiểu rõ hơn về triết lý và ý nghĩa cuộc sống. Tại Việt Nam, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tâm linh và được sử dụng rộng rãi trong trì tụng hàng ngày.
Chân Không Viên Mãn
Này Xá Lợi Phất, chính vì không có chứng đắc mà bồ tát, dựa vào trí huệ bát nhã, tâm không có chướng ngại.
Vì không có chướng ngại nên không sợ hãi, xa lìa lầm tưởng, đạt tới Niết Bàn.
Hết thảy chư Phật trong ba đời đều dựa vào trí huệ bát nhã mà chứng đắc giác ngộ vô thượng viên mãn.
Đạo Nho thì nói duy tinh duy nhất; đạo Phật thì nói vạn pháp quy nhất; Đạo giáo thì nói bảo nguyên quy nhất. Việc tu đạo là việc đầu tiên phải làm.
Ngồi yên không động là tĩnh. Tham lam là động. Nếu lòng còn ham muốn, hoặc chấp vào một cái gì tâm không tĩnh. Dâm dục là động, tiết dục là tĩnh. Nếu không còn ham muốn thì sẽ thấy sự huyền diệu trong thân.
Mắt chẳng nhìn vật phi lễ, tai chẳng nghe chuyện phi lễ, miệng chẳng nói điều phi lễ, chẳng làm những chuyện phi lễ thì mắt, tai, miệng, tâm được thanh tĩnh.
Sự hiện hữu của Nguyên Thần tuỳ thuộc vào sự hiện hữu của Thân. Nay được thân người đừng hồ đồ mà uổng một kiếp. Phải phân biệt Nguyên Thần và Thức Thần, đừng lầm chân, giả.
Lòng người thường yêu tĩnh không yêu động, nhưng ham muốn là thất tình, lục dục thì trái lại, hướng ngoại bôn ba. Người có lục căn, nên có lục thức, có lục thức nên có lục trần, có lục trần nên có lục tặc; vì có lục tặc nên lục thần bại hoại phải sa lục đạo.
Lục tặc là : Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Tâm.
Mắt tham sắc thì hồn sẽ thác vào Noãn sinh và trở thành chim, sẽ có lông vũ đầy mầu sắc cho mọi người ngắm nhìn chẳng thích sao ?
Nếu tai ưa nghe những lời xấu hồn sẽ thác vào thai sinh sẽ trở thành lừa, ngựa, lạc đà và sẽ được đeo chuông, tai được nghe tiếng chẳng thích sao ?
Mũi thích ngửi mùi thơm sẽ thác sinh vào thấp sinh sẽ trở thành tôm, cua sống trong bùn nhơ, hôi hám, ngửi chẳng thích sao ?
Lưỡi tham ngũ vị, hồn sẽ thác sinh vào loài côn trùng như muỗi, dùng miệng đốt người, nếm vậy chẳng thích sao ?
Tâm tham tài sẽ thác sinh làm lạc đà chuyên chở vàng bạc châu báu cho người, đó chẳng phải là phú quý sao ?
Thân tham dâm hồn sẽ đoạ vào loài gà, vịt, tối ngày giao hợp, há chẳng vui thú sao ? Đó là báo ứng của lục dục, còn thất tình thì sao ? Ta không thể không biết. Thất tình là vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn.
Vui làm hại tâm, giận làm hại gan, buồn làm hại phổi, giận làm hại tỳ, yêu làm hại thần, sợ làm hại mật, ghét làm hại tình.
Ngoài ra còn có 10 tổn hại : Đi nhiều làm hại gân, đứng nhiều hại xương, ngồi nhiều hại máu, ngủ nhiều hại mạch, nghe nhiều hại tinh, nhìn nhiều hại thần, nói nhiều hại khí, ăn nhiều hại tim, nghĩ nhiều hại tỳ, dâm nhiều hại mạng. Đó là 10 điều tổn. Phàm nhân thường bị tổn hại bởi thất tình, lục dục và 10 tổn, bỏ được chúng sẽ trở về Đạo Tâm.
Lắng tâm giống như lấy những nhơ bẩn trong nước ra. Tâm có tạp niệm như nước có vẩn đục. Nếu biết làm vẩn dừng lại thì được Định, do đó nước trong.
Thần Tú nói :
Thân là bồ đề thụ
Tâm như minh kính đài
Luôn luôn chùi và rửa
Sợ gì bám trần ai ?
Lục Tổ Huệ Năng thì nói :
Bồ đề vốn không cội
Gương sáng cũng chẳng đài
Vốn không có một vật
Làm sao bám trần ai?
Con người sống trong vòng trời đất không thể thành Tiên, thành Phật, thành Thánh Hiền là vì không khử đi được mọi vui, giận, buồn.
Nho giáo dạy : Đừng nhìn những gì cấm giới, đừng nghe những gì làm cho sợ hãi.
Đạo Phật nói : Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, hương, vị, xúc, pháp.
Đạo giáo nói : Hoảng hoảng, hốt hốt, yểu yểu, minh minh.
Người có thể trừ tạp niệm thì khi nhìn vào trong tâm không thấy có Tâm, nhìn Hình bên ngoài không thấy có Hình. Xa nhìn Vạn Vật, chẳng thấy có Vật, tất cả chỉ thấy Không.
Đáng thương thế gian có những người ngu không những không quên được hình lại coi thân giả này là Chân Thân, đem rượu thịt nuôi béo thân, mặc áo đẹp cho thân, lấy gái đẹp làm bạn thân. Còn tu luyện thì hoặc tập Bát đoạn cẩm, 6 trị khí, tiểu chu thiên để luyện thân. Tất cả đều thi hành trên xác thân, trong địa ngục mà tìm đường, không những không thể thành Tiên, khi thọ mệnh kết thúc, tứ đại phân ly một điểm linh tánh vĩnh viễn trầm luân.
Khi đã quét sạch ba tâm, bốn tướng, bên ngoài không Vật, bên trong không Tâm, chỉ có trống rỗng. Ở trạng thái đó ngay cả trống rỗng cũng không tồn tại. Trong Chân Không, không có không gian, không Dục Giới, không Sắc Giới, không Tướng Giới, không Tư Giới. Tất cả mọi cảnh giới đều tan biến. Cái Tĩnh không thể tĩnh hơn đó gọi là Đại Định, không người, không ta. Trong cái hỗn độn đó, Dục há khởi được sao? Dục không sinh thì đó là Chân Tĩnh.
Trong Chân Không, Thần sẽ Tĩnh. Hỷ không thì Hồn Định. Nộ không thì Phách sẽ định. Lạc không thì Thần Định. Ai không thì Tinh định. Dục không thì Ý định.
Phật thì nói : Vô vô minh, diệc vô vô minh tận.
Chân thường ứng vật, chân thường được tánh, thường ứng, thường tĩnh, thường thanh tĩnh.
Sự đến thì ứng, sự đi thì tĩnh, đó là thường thanh tĩnh, gọi là tịch nhiên bất động. Người tu Đạo mỗi ngày trừ Tâm, trừ Tướng, trừ Vọng, giữ Thành.
Lương tri, lương năng gọi là Chân Tánh. Nhân tâm chết thì Đạo Tâm sinh.
Người học Nho đọc Tứ Thư Ngũ Kinh, mỗi lời đều là sự khử Dục, chỉ cần khử Dục là xong hết không chú trọng đến tồn Tâm, dưỡng Tánh. Tâm làm sao tồn ? Tánh làm sao dưỡng ?
Những người theo Thiền tham thiền học Phật, xem kinh Pháp Hoa, Kim Cương, mỗi lời đều là khử Niệm trước tiên, không biết minh tâm kiến tánh, làm sao để Tâm được sáng ? làm sao để thấy được Tánh ?
Người theo Lão tu Chân học Tiên. Họ xem Thanh Tĩnh Kinh, mỗi lời đều dạy quán Không cho thế là xong, không để ý đến tu tâm, luyện tánh. Tâm làm sao tu ? Tánh làm sao luyện ? Chỉ ngồi không làm sao thành Đạo ? Há không biết Đại Đạo chính là Thiên Đạo. Thiên Đạo sinh ra và nuôi dưỡng vạn vật.
Cái có được là sau khi thọ Đạo, khổ tu khổ luyện, tâm như sắt đá, ngàn khó chẳng cải, vạn khó chẳng lui, phú quý chẳng dâm, bần tiện chẳng đổi, uy võ chẳng sợ, chí chẳng dời thì không đi được nửa đường mà bỏ. Phải dứt bỏ danh lợi, ân ái, rượu chè, tài khí thì mới đắc Đạo được. Tu thân bên ngoài thì nhiều người biết, nhưng bên trong thì ít người hay.
Bỏ ngoài được trong, bỏ giả được thật, ngoài bồi công, nội tu quả, định độ nhân, tĩnh độ mình. Đó mới gọi là Đắc Đạo.
Biết sai thì sửa, biết tội thì sám hối. Giới sát thành Nhân, giới sảo thủ thành Nghĩa, giới tà dâm thành Lễ, giới rượu thịt thành Trí, giới vọng ngữ thành Tín. Do đó, nhân nghĩa lễ trí tín do cố gắng mà được. Thấy người giới sát, phóng sinh thì nói đó là khinh thân người mà trọng súc vật. Thấy giới Đạo giúp người nghèo khốn thì nói rỗng túi tiền mình để trả nợ cho người. Thấy người giới tà dâm thì nói sao lại cấm người ta khoái lạc. Thấy người giới tửu nhục thì nói lục súc sinh ra đời để người ăn. Thấy người giới vọng ngữ thì nói chỉ cần tâm tốt cần gì phải giữ miệng. Họ bàn cãi nhiều chuyện nhưng chẳng hiểu gì cả về các điều mà Khổng, Lão, Phật đã dạy bảo.
Chúng sanh sở dĩ không đắc Chân Đạo vì có Vọng Tâm.
Vọng tâm do đâu sinh ? Đó là do tửu, sắc, tài khí, danh lợi, ân ái.
Vọng tưởng Tửu là để nuôi Thân. Há không biết cái hại của của nó làm mê tâm, loạn tánh ! Khí mạch của người và thiên địa cùng thăng giáng. Khi uống rượu khí mạch không thuận, quần tinh trong thân sai lầm, thọ mạng sẽ bị rút ngắn lại.
Vọng tưởng Sắc thoả mãn thân, không biết đến cái hại của sắc. Trong thân người Tinh sẽ sinh Khí, Khí sẽ sinh Thần. Chỉ có được tam bảo (tinh, khí, thần) mới có thể sống lâu. Khi tham Sắc thì Tinh lậu, không thể sinh Khí, Khí suy thì không thể sinh Thần. Tam bảo cạn kiệt mạng sống sẽ ngắn đi.
Kẻ tham Tài không biết cái hại của nó. Sáng chiều lao tâm tổn trí để được vật chất, không còn sinh lực để tu luyện Tam Bảo. Dù có ngàn lạng vàng cũng không mua được Vô Thường, một hơi chẳng tới, thì cũng tay không ra đi, một xu cũng chẳng mang theo được, lại đoạ vào tứ sinh lục đạo, chuyển biến không thôi.
Những người không giữ được giận dữ, không biết cái hại của nó, chuyện nhỏ sẽ thành chuyện lớn, hoặc bị lao tù kìm kẹp, khuynh gia bại sản, vợ con oán hận, hối thì đã muộn.
Vọng tưởng sinh Danh sẽ làm vinh Thân, không biết cái hại của nó. Tập văn sẽ vinh Thân nhưng làm mệt Tâm. Tập võ sẽ vinh Hình nhưng mệt Thân. Dù được chức vị cực phẩm cũng không mua được trường sinh bất tử. Làm trung thần, lương tướng chết rồi sẽ thành Thần, làm gian đảng, nghịch tặc chết rồi sẽ bị trầm luân.
Vọng tưởng ân ái làm sướng thân, không biết cái hại của nó. Khi có tiền thì vợ kính, con hiếu, nếu nghèo khổ, vợ chẳng hiền, con chẳng hiếu. Những người có vợ hiền, con hiếu bị vợ con ràng buộc khi đứt hơi, tội mình làm mình phải gánh chịu, vợ con tuy thân cũng không thể gánh giùm.
Thường người tu Đạo không nên khởi vọng niệm, vọng niệm khởi động sẽ kinh động Nguyên Thần.
Nếu không nghĩ chuyện trên trời thì sẽ nghĩ đến chuyện ở dưới đất, không nghĩ chuyện ở dưới đất thì sẽ nghĩ đến chuyện ở trong người. Những chuyện ở trên Trời là : nhật, nguyệt, tinh, thần, phong, vân, lôi, vũ. Những chuyện ở dưới đất là : sơn, xuyên, thảo, mộc, ngũ hành, tứ sinh. Những chuyện ở đời là : danh, lợi, ân ái, tửu, sắc, tài, khí.
Đã chấp vạn vật tức sanh Tham, Cầu.
Tâm khởi lên một niệm chấp liền bị vạn vật lôi kéo mà khởi lên lòng tham muốn chiếm đoạt đó là Tâm Dục. Người đời khó mà thoát khỏi.
Tham Dâm làm tổn Tinh làm suy Thuỷ. Tham Tài làm thương Tánh làm suy Mộc. Tham Quý làm thương Thần làm suy Hoả. Tham Sát làm thương Tình làm suy Kim. Tham Thắng làm thương Khí làm suy Thổ. Khi ngũ hành bị suy thì than sẽ bị bệnh.
Đã sinh Tham, Cầu, sẽ bị phiền não; phiền não vọng tưởng sẽ làm Thân Tâm khổ sở, lo lắng.
Thân là hình thể, còn Tâm là chủ. Vì người đời không bỏ được Danh Lợi, Ân ái, Tửu sắc tài khí, nên bị lục trần, lục tặc làm nhiễm. Tham cầu vinh hoa, phú quý, nếu không được vinh hoa phú quý sẽ sinh phiền não, nếu được thì từ vinh hoa, phú quý đó sẽ nảy sinh ra nhiều phiền não hơn.
Người đời tham danh lợi, ân ái nên bị phiền não, lo lắng, buồn rầu, tất lạc vào ngũ trọc và trầm luân trong sinh tử luân hồi.
Một trong ngũ tạng suy thì lục phủ, bách thể đều suy thì trường thọ sao được ? Sống chết như những làn sóng kế tiếp nhau, vì vậy nói luân hồi là trầm luân trong bể khổ. Do đó nói tửu, sắc, tài, khí là bốn bể khổ. Nếu không trừ bỏ chúng thì vĩnh viễn ở trong biển khổ.
Người tự ngộ được Đạo Chân Thường thì thường Thanh Tĩnh.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Xem thêm: Hướng dẫn chép Kinh Địa Tạng